Sản lượng điện Việt Nam: Tăng chậm trước nhu cầu bùng nổ

 Đây là bảng sản lượng điện của EVN được tổng hợp qua các năm 2021, 2022, 2023

Theo như bảng trên chúng ta có thể nhìn thấy tình hình điện nước ta hiện có những câu hỏi rất hay:

Với tốc độ như vậy có đáp ứng được như cầu phát triển hiện nay được không?
Với câu hỏi này thì ta quay lại phân tích dữ liệu trong bảng tổng hợp trên

-Mức tăng bình quân khoảng 2,7%/năm trong 2 năm gần đây. Đây là tốc độ tăng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng nhu cầu điện của Việt Nam giai đoạn trước, vốn thường 7–9%/năm (theo các dự báo của Bộ Công Thương và Quy hoạch điện VIII).
-Với đà tăng 1,8% và 3,6%/năm như 2021–2023, khó đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội hiện nay nếu không có các giải pháp bổ sung.
-Sự gia tăng sản lượng chủ yếu đến từ than và năng lượng tái tạo, trong khi thủy điện, khí gần như không tăng, dầu giảm mạnh.
-Nhập khẩu điện năm 2023 tăng tới 43,4%, cho thấy trong nước phải bù đắp bằng nguồn ngoài để đáp ứng nhu cầu.
==> Vậy nên ta cần tăng tốc đầu tư nguồn điện mới, đa dạng hóa nguồn 
-Đẩy nhanh tiến độ các dự án nhiệt điện than, điện khí LNG, và chuẩn bị cho các dự án điện hạt nhân trong dài hạn.
-Mở rộng thủy điện tích năng để hỗ trợ điều tiết phụ tải.
-Giảm phụ thuộc vào nhập khẩu điệnChủ động ký hợp đồng dài hạn với các nước láng giềng nhưng song song phát triển nội lực.

Vì sao nhiệt điện vẫn luôn chiếm ưu thế hơn thủy điện?




Với xu hướng này, liệu Việt Nam có cần đẩy mạnh thêm điện khí, điện hạt nhân hoặc lưu trữ năng lượng?

Với tốc độ tăng sản lượng điện hiện tại thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng nhu cầu, Việt Nam nên đẩy mạnh cả điện khí, điện hạt nhân và các giải pháp lưu trữ năng lượng để đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn.

Lý do:

-Điện khí: Phát thải thấp hơn than, có khả năng khởi động nhanh, phù hợp để điều tiết phụ tải và hỗ trợ năng lượng tái tạo. Quy hoạch điện VIII đã định hướng phát triển mạnh LNG.

-Điện hạt nhân: Công suất lớn, ổn định, không phụ thuộc thời tiết, giúp giảm nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch và giảm phát thải CO₂. Đây là giải pháp dài hạn, nhưng cần chuẩn bị sớm vì thời gian xây dựng dài (8–10 năm).

-Lưu trữ năng lượng: Giúp tận dụng tối đa công suất điện gió, điện mặt trời, giảm lãng phí khi dư thừa và đáp ứng nhu cầu khi phụ tải cao. Các công nghệ như pin lưu trữ quy mô lớn, thủy điện tích năng cần được triển khai đồng bộ.

📌 Kết luận: Nếu không triển khai mạnh mẽ các nguồn điện này cùng với nâng cao hiệu quả sử dụng điện, Việt Nam sẽ khó tránh được nguy cơ thiếu điện trong 5–10 năm tới, đặc biệt vào mùa khô hoặc khi phụ tải tăng đột biến.


Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn